Chiếc Thuyền Ga-li-lê Thế Kỷ Thứ Nhất
Tác giả: Jonathan Reed; John Dominic Crossan
Dịch sang tiếng Việt: Bùi Kim Thanh, Hội Thần Học Thánh Kinh Việt Nam
Một chiếc thuyền đánh cá thuộc thế kỷ thứ nhất được phát hiện vào năm 1986; nhờ sự phát hiện này nhiều chi tiết về công nghệ đóng thuyền và đánh cá trên biển hồ Ga-li-lê đã được đưa ra ánh sáng. Khi mực nước biển Ga-li-lê giảm mạnh do hạn hán nghiêm trọng, hai anh em từ vùng Kibbutz Ginnosar tình cờ khám phá ra đường viền của một chiếc thuyền bị chôn vùi trong bùn gần vùng đất Magdala cổ đại. Chiếc thuyền đánh cá này được phục hồi và mang vào bờ trước khi mực nước dâng cao trở lại. Gần hai ngàn năm trước, chiếc thuyền dài 8.5 m và rộng 2.5 m này đã bị bỏ rơi vào tình trạng không tu sửa được cho nên người ta đã tháo gỡ lấy các bộ phận còn sử dụng được và đẩy nó ra khơi để cho chìm. Sau nhiều năm, phù sa và bùn phủ lấp con thuyền, bao bọc nó trong trạng thái yếm khí và bảo vệ nó khỏi bị vi khuẩn làm hư mục.
Cách thiết kế và các vật liệu được dùng để làm thân thuyền cho chúng ta biết về kinh nghiệm và nguồn tài nguyên hạn hẹp của người nghệ nhân đã đóng thuyền này. Người nghệ nhân này tuy không có đủ vật liệu để đóng thuyền, nhưng lại là người có kinh nghiệm, thông minh, và có tâm huyết để bảo trì và sử dụng con thuyền này một thời gian. Ban đầu thuyền được đóng bằng gỗ được trục vớt từ các thuyền khác cũng như loại gỗ kém chất lượng có sẵn tại địa phương. Long cốt trước của thuyền là bộ phận duy nhất được làm từ loại gỗ thích hợp; bộ phận quan trọng này được tháo gỡ từ một một chiếc thuyền khác và được tái sử dụng, đây là một bộ phận của thuyền được làm từ loại gỗ tuyết tùng Lê-ba-non. Chúng ta biết được chi tiết này là vì những dấu tích của các vết cắt các khớp nối gỗ trước đó vẫn còn nhận thấy được. Hầu hết các bộ phận thân thuyền của thuyền được làm từ loại gỗ có chất lượng thấp mà không có người nghệ nhân đóng thuyền nào ở vùng Địa Trung Hải muốn sử dụng, các loại gỗ kém chất lượng như thông, gỗ táo, và liễu. Các thân và ván gỗ khoang thuyền được nối bằng khớp mộng và mộng, được khóa lại với nhau bằng các chốt gỗ sồi và bịt kín bằng nhựa thông rất vừa và chính xác. Lớp gỗ ván bọc thuyền được đóng bằng đinh và ghim sắt vào khung thuyền một cách vững chắc; và toàn bộ mặt dưới thuyền được bôi bằng bitum.
Đương nhiên, theo thời gian, mục tiêu của người nghệ nhân đóng thuyền không đạt được khi dùng các vật liệu kém chất lượng để đóng thuyền vì các mộng khớp của thuyền bị gãy, ván thuyền nứt, và các khớp chốt bị mục nát. Do đó chủ thuyền tháo gỡ cánh buồm, mỏ neo và các bộ phận có thể được tái sử dụng, kể cả đinh; sau đó thân thuyền đã bị đẩy ra khỏi bờ để trôi dạt và chìm. Các dụng cụ nồi bếp và một chiếc đèn địa phương thô sơ đã ước định được tuổi của con thuyền vào niên đại của thế kỷ thứ nhất; các tấm ván gỗ cũng được carbon-14 xác nhận có cùng niên đại. Thiếu vật liệu thích hợp để đóng thuyền, ngư dân trên biển hồ Ga-li-lê đã làm việc chăm chỉ để bảo trì thuyền, sử dụng các mảnh gỗ tìm được để thay thế các tấm ván mục nát; họ mưu sinh bằng cách đánh cá và kéo lưới dọc theo bờ biển.
Bibliography
- Rousseau, John J., and Rami Arav. Jesus and His World: An Archaeological and Cultural Dictionary. Minneapolis: Fortress, 1995.
- Hanson, K. C., and Douglas E. Oakman. Palestine in the Time of Jesus: Social Structures and Social Conflicts. 2nd ed. Minneapolis: Fortress, 2008.
- Oakman, Douglas E. The Political Aims of Jesus. Minneapolis: Fortress, 2012.